Thủ tục đối thoại trong tố tụng hành chính
Thứ Tư, 5 tháng 4, 2017
Thủ tục đối thoại trong tố tụng hành chính
Thông báo về phiên họp đối thoại
Mục đích của việc thông báo về phiên họp đối thoại là nhằm giúp cho đương sự, người đại diện và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ biết được thời gian, địa điểm và nội dung của phiên họp đối thoại để đến tham dự phiên họp. Ngoài ra, thông qua việc thông báo này giúp các bên đương sự có thời gian chuẩn bị trước để có thể bảo vệ quyền lợi của mình một cách tốt nhất. Điều 136 Luật TTTHC năm 2015 quy định thông báo về phiên họp đối thoại cùng một điều luật với thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, cụ thể như sau:
1. Trước khi tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại giữa các đương sự, Thẩm phán phải thông báo cho các đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự về thời gian, địa điểm tiến hành phiên họp và nội dung của phiên họp.
2. Trường hợp vụ án hành chính không tiến hành đối thoại được theo quy định tại Điều 135 của Luật này thì Thẩm phán tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ mà không tiến hành việc đối thoại.
Trách nhiệm thông báo về phiên họp đối thoại thuộc về Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án, đồng thời là chủ thể tiến hành đối thoại. Nội dung thông báo bao gồm thời gian, địa điểm và nội dung của phiên họp đối thoại. Trên cơ sở thông báo của Thẩm phán, người được thông báo đến tham dự phiên họp để nêu ý kiến của mình về vụ án mà Tòa án đang thụ lý giải quyết. Ngoài ra, Luật TTHC năm 2015 cũng đã nêu rõ đối với vụ án hành chính không tiến hành đối thoại được thì chỉ tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận và công khai chứng cứ.
Thành phần phiên đối thoại
Khoản 1 Điều 137 Luật TTHC năm 2015 quy định thành phần tham gia phiên họp gồm có: Thẩm phán chủ trì phiên họp; thư ký phiên họp ghi biên bản; đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự; người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự (nếu có); người phiên dịch (nếu có). Đây là những chủ thể phải có mặt tại phiên họp đối thoại. Đối với đương sự hoặc người đại diện của đương sự thì chỉ cần một trong hai có mặt. Trường hợp vụ án hành chính có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp thì họ có quyền đến tham dự phiên đối thoại, người phiên dịch bắt buộc phải có mặt tại phiên họp đối thoại nếu như trong vụ án hành chính có đương sự là người nước ngoài, dân tộc thiểu số hoặc đương sự bị khuyết tật nghe, khuyết tật nói, khuyết tật nhìn theo quy định tại Điều 21 Luật TTHC năm 2015. Ngoài ra, theo khoản 2 Điều 137 Luật TTHC năm 2015 thì trường hợp cần thiết, Thẩm phán có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan tham gia phiên họp. Đây là những cá nhân, cơ quan và tổ chức có thể không có quyền và nghĩa vụ liên quan đến vụ án nhưng được Thẩm phán mời đến phiên họp để hỗ trợ Thẩm phán, các bên đương sự trong việc thống nhất với nhau về việc giải quyết vụ án ví dụ như người làm chứng, người giám định…
Việc xử lý trong trường hợp có người vắng mặt tại phiên họp đối thoại cũng được Luật TTHC năm 2015 quy định rất rõ tại khoản 3 Điều 137. Theo đó, trong vụ án có nhiều đương sự, mà có đương sự vắng mặt, nhưng các đương sự có mặt vẫn đồng ý tiến hành phiên họp và việc tiến hành phiên họp đó không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt thì Thẩm phán tiến hành phiên họp giữa các đương sự có mặt; nếu các đương sự đề nghị hoãn phiên họp để có mặt tất cả các đương sự trong vụ án thì Thẩm phán phải hoãn phiên họp và thông báo bằng văn bản việc hoãn phiên họp, mở lại phiên họp cho các đương sự.
Trình tự phiên họp đối thoại
Trình tự phiên họp đối thoại được quy định tại khoản 4 Điều 138 Luật TTHC năm 2015, theo đó, Thẩm phán tiến hành thủ tục đối thoại như sau:
– Thẩm phán phổ biến cho đương sự biết các quy định của pháp luật có liên quan đến việc giải quyết vụ án để các bên liên hệ đến quyền, nghĩa vụ của mình, phân tích hậu quả pháp lý của việc đối thoại để họ tự nguyện thống nhất với nhau về việc giải quyết vụ án;
– Người khởi kiện trình bày bổ sung về yêu cầu khởi kiện, những căn cứ để bảo vệ yêu cầu khởi kiện và đề xuất quan điểm của người khởi kiện về hướng giải quyết vụ án (nếu có);
– Người bị kiện trình bày bổ sung ý kiến về yêu cầu của người khởi kiện, những căn cứ ban hành quyết định hành chính, thực hiện hành vi hành chính bị khởi kiện và đề xuất hướng giải quyết vụ án (nếu có);
– Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án trình bày bổ sung và đề xuất ý kiến giải quyết phần liên quan đến họ (nếu có);
– Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự hoặc người khác tham gia phiên họp đối thoại (nếu có) phát biểu ý kiến;
– Tùy từng trường hợp, Thẩm phán yêu cầu đương sự nêu văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính có liên quan để đánh giá tính hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khởi kiện, đồng thời kiểm tra hiệu lực pháp luật của văn bản đó. Thẩm phán có thể phân tích để các đương sự nhận thức đúng về nội dung văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính có liên quan để họ có sự lựa chọn và quyết định việc giải quyết vụ án;
– Sau khi các đương sự trình bày hết ý kiến của mình, Thẩm phán xác định những vấn đề các bên đã thống nhất, những vấn đề chưa thống nhất và yêu cầu các bên đương sự trình bày bổ sung về những nội dung chưa rõ, chưa thống nhất;
– Thẩm phán kết luận về những vấn đề các bên đương sự đã thống nhất và những vấn đề chưa thống nhất.
Có thể thấy, Luật TTHC năm 2015 quy định rất chi tiết về thủ tục phiên họp đối thoại, trong đó Thẩm phán có vai trò rất lớn. Theo quy định trên thì tại phiên họp đối thoại Thẩm phán với tư cách là người tiến hành tố tụng và là chủ thể tiến hành đối thoại sẽ cung cấp cho các đương sự biết về các văn bản pháp luật có liên quan đến việc đánh giá tính hợp pháp của đối tượng khiếu kiện để họ tự xác định xem khiếu kiện Tòa án đang giải quyết có hợp pháp hay không, đồng thời Thẩm phán có thể phân tích cho các đương sự hiểu đúng về nội dung của quy phạm pháp luật để họ có thể quyết định việc lựa chọn việc giải quyết tranh chấp đang phát sinh giữa các bên.
Biên bản đối thoại
Theo khoản 2 Điều 139 Luật TTHC năm 2015 thì biên bản đối thoại phải có các nội dung sau: Ngày, tháng, năm tiến hành phiên họp; địa điểm tiến hành phiên họp; thành phần tham gia phiên họp; ý kiến của các đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự; nội dung đã được đương sự thống nhất, không thống nhất. Biên bản phải có đầy đủ chữ ký hoặc điểm chỉ của những người tham gia phiên họp, chữ ký của Thư ký phiên họp ghi biên bản và của Thẩm phán chủ trì phiên họp. Những người tham gia phiên họp có quyền được xem biên bản phiên họp ngay sau khi kết thúc phiên họp, yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên họp và ký tên hoặc điểm chỉ xác nhận.
Như vậy, Luật TTHC năm 2015 có quy định cụ thể về biên bản đối thoại, trong đó đáng chú ý là biên bản đối thoại phải có nội dung đã được đương sự thống nhất, không thống nhất. Trên cơ sở ghi nhận ý kiến của các bên đương sự trong quá trình đối thoại, các nội dung mà đương sự đã thống nhất được với nhau cũng như nội dung mà các bên chưa thống nhất được để làm cơ sở cho Thẩm phán tiến hành đối thoại có hướng xử lý tiếp theo của việc giải quyết vụ án hành chính là tiếp tục xét xử hay đình chỉ giải quyết vụ án hành chính.
Xử lý kết quả đối thoại
Điều 140 Luật TTHC năm 2015 đã quy định chi tiết về xử lý kết quả đối thoại. Theo đó có ba trường hợp xảy ra: Thứ nhất, các bên đương sự vẫn giữ yêu cầu của mình trong quá trình đối thoại; thứ hai, người khởi kiện tự nguyện rút đơn khởi kiện; thứ ba, người bị kiện cam kết sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ quyết định bị khởi kiện hoặc chấm dứt hành vi hành chính bị khởi kiện và người khởi kiện cam kết rút đơn khởi kiện. Tùy vào từng trường hợp mà Tòa án có cách xử lý khác nhau, cụ thể:
Trường hợp qua đối thoại mà người khởi kiện vẫn giữ yêu cầu khởi kiện, người bị kiện giữ nguyên quyết định, hành vi bị khởi kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập vẫn giữ nguyên yêu cầu thì Thẩm phán tiến hành các thủ tục để mở phiên tòa xét xử vụ án. Đối với trường hợp này trong quá trình đối thoại thì người khởi kiện vẫn giữ quan điểm cho rằng khiếu kiện bị khởi kiện là trái với quy định của pháp luật trong khi đó người bị kiện vẫn bảo lưu quan điểm cho rằng khiếu kiện do mình ban hành hoặc thực hiện là hợp pháp. Trường hợp này giữa các bên đương sự đã không thể thống nhất với nhau về việc giải quyết vụ án hành chính nên Thẩm phán phải tiến hành thủ tục để đưa vụ án ra xét xử tại phiên tòa.
Trường hợp qua đối thoại mà người khởi kiện tự nguyện rút đơn khởi kiện thì Thẩm phán lập biên bản về việc người khởi kiện tự nguyện rút đơn khởi kiện, ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu của người khởi kiện và người khởi kiện được quyền khởi kiện lại vụ án nếu thời hiệu khởi kiện vẫn còn. Đối với trường hợp này thì đây là hành động từ một phía của người khởi kiện mà không cần có sự thống nhất của người bị kiện vì trong quá trình đối thoại người khởi kiện nhận thức được các quyết định hành chính, hành vi hành chính cơ quan có thẩm quyền ban hành hoặc thực hiện là đúng với quy định của pháp luật nên họ đã tự nguyện rút đơn khởi kiện, bởi lẽ họ xác định nếu tiếp tục theo đuổi vụ kiện cũng không đạt được kết quả như mong muốn lại mất thêm thời gian, công sức và tiền bạc.
Trường hợp qua đối thoại mà người bị kiện cam kết sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ quyết định bị khởi kiện hoặc chấm dứt hành vi hành chính bị khởi kiện và người khởi kiện cam kết rút đơn khởi kiện thì Tòa án lập biên bản về việc cam kết của đương sự. Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày lập biên bản, người bị kiện phải gửi cho Tòa án quyết định hành chính mới hoặc thông báo về việc chấm dứt hành vi hành chính bị khởi kiện và người khởi kiện phải gửi cho Tòa án văn bản rút đơn khởi kiện. Hết thời hạn này mà một trong các đương sự không thực hiện cam kết của mình thì Thẩm phán tiến hành các thủ tục để mở phiên tòa xét xử vụ án. Trường hợp nhận được quyết định hành chính mới hoặc văn bản rút đơn khởi kiện thì Tòa án phải thông báo cho các đương sự khác biết. Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được thông báo của Tòa án, nếu các đương sự không có ý kiến phản đối thì Thẩm phán ra quyết định công nhận kết quả đối thoại thành, đình chỉ việc giải quyết vụ án và gửi ngay cho đương sự, Viện kiểm sát cùng cấp. Quyết định này có hiệu lực thi hành ngay và không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm; trường hợp có căn cứ cho rằng nội dung các bên đã thống nhất và cam kết là do bị nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa hoặc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội thì quyết định của Tòa án có thể được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm.
Đối với trường hợp này, thông qua đối thoại người bị kiện đã nhận thức được khiếu kiện do mình ban hành hoặc thực hiện là không đúng với quy định của pháp luật nên đã cam kết sửa đổi, hủy bỏ, bổ sung hoặc thay thế, trong khi đó đối với người khởi kiện mặc dù vụ án hành chính chưa được giải quyết bằng phán quyết của Tòa án nhưng mục đích tham gia tố tụng đã đạt được nên cam kết rút đơn khởi kiện để sớm chấm dứt việc giải quyết vụ án hành chính. Trên cơ sở các bên tham gia đối thoại đạt được sự đồng thuận trong việc giải quyết tranh chấp đang phát sinh nên các bên đương sự trong vụ án đều phải thực hiện những hành vi pháp lý nhất định mà các bên đã thỏa thuận. Theo chúng tôi, Luật TTHC năm 2015 có quy định rất hợp lý khi dành khoảng thời gian nhất định để các bên tham gia đối thoại thực hiện cam kết của mình thì Thẩm phán mới ra quyết định công nhận kết quả đối thoại thành, tránh trường hợp một trong các bên đối thoại không thực hiện đúng cam kết ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bên còn lại.
Thạc sĩ LÊ VIỆT SƠN
Nguồn: Kiemsat.vn
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét