QUYỀN CỦA LUẬT SƯ THEO BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ 2015
Thứ Sáu, 16 tháng 12, 2016
QUYỀN CỦA LUẬT SƯ THEO BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ 2015
(Hình ảnh - sưu tầm)
1.
Trước năm 1988, nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chưa có Bộ luật tố
tụng hình sự (BLTTHS) mà chỉ có một vài văn bản quy phạm pháp luật quy định về
luật sư. Do vậy, việc luật sư thực hiện nhiệm vụ bào chữa trong tố tụng hình sự
rất mang tính hình thức. Mặt khác, tại Việt Nam không có Trường Luật để đào tạo
Cử nhân Luật. Những Luật sư làm việc trong thời gian này chủ yếu được đào tạo tại
Trường Luật của chế độ Việt Nam Cộng hòa trước đây.
BLTTHS đầu tiên được Quốc hội thông
qua năm 1988. Trong BLTTHS này có quy định về quyền bào chữa của luật sư tham
gia tố tụng, nhưng quyền của luật sư thực hiện nhiệm vụ bào chữa cũng rất hạn
chế. Do vậy, tố tụng hình sự Việt Nam đã bộc lộ nhiều tồn tại liên quan đến bỏ
lọt tội phạm, làm oan người vô tội; hoạt động tố tụng vi phạm các quyền tự do,
dân chủ của công dân. Điều này đã đặt ra yêu cầu cần thiết phải sửa đổi, bổ
sung BLTTHS năm 1988.
BLTTHS 2003 được Quốc hội thông qua
thay thế BLTTHS 1988. Trong quá trình thực thi BLTTHS 2003 đến 2015 cũng đã bộc
lộ nhiều tồn tại, hạn chế liên quan đến quyền của Luật sư thực hiện nhiệm vụ
bào chữa; hoạt động của Luật sư bị cản trở xảy ra nhiều tại giai đoạn điều tra,
truy tố (như không cấp giấy chứng nhận người bào chữa cho Luật sự; không thông
báo cho Luật sư thời gian, địa điểm hỏi cung bị can; không cho luật sư có mặt
trong một số hoạt động điều tra; xúi giục bị can từ chối luật sư bào chữa;
không thừa nhận những tài liệu, đồ vật mà Luật sư giao nộp cho Cơ quan điều
tra, truy tố là chứng cứ; không cho gặp bị can đang bị tạm giam v.v…). Vì vậy,
những vấn đề liên quan đến quyền con người, quyền công dân, quyền của cơ quan,
tổ chức, cá nhân khi tham gia tố tụng hình sự bị bó hẹp; tình trạng gây oan,
sai trong điều tra, bắt, giam, giữ, truy tố, xét xử vẫn tiếp tục diễn ra ngày một
nghiêm trọng.
Hiến pháp năm 2013 của Nhà nước Việt
Nam đặt ra yêu cầu phải tôn trọng và bảo vệ các quyền con người, quyền công dân
về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội. Điều này đặt ra sự cần thiết phải
cải cách mạnh mẽ thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng dân chủ, bình đẳng, công
khai, minh bạch, chặt chẽ nhưng thuận tiện; đảm bảo chất lượng tranh tụng tại
các phiên tòa xét xử, lấy kết quả tranh tụng tại tòa làm căn cứ quan trọng để
phán quyết bản án, coi đây là khâu đột phá để nâng cao chất lượng hoạt động tư
pháp. Điều này đặt ra sự cấp bách phải có BLTTHS mới thay thế BLTTHS 2003. Do vậy
năm 2015, Quốc hội Việt Nam đã thông qua BLTTHS mới và có hiệu lực kể từ ngày
1/7/2016. Tuy nhiên, việc bổ sung, sửa đổi Bộ luật hình sự (BLHS) chưa hoàn
thành nên đến thời điểm hiện nay (tháng 12/2016), BLTTHS 2015 tạm thời chưa có
hiệu lực thực thi trong thực tế hoạt động tố tụng hình sự. Dự kiến 1/7/2017,
BLTTHS 2015 sẽ có hiệu lực và bắt đầu thực thi trong hoạt động tố tụng hình sự.
2. So sánh với BLTTHS 2003, BLTTHS
2015 đã đưa vào những nội dung mới, thể hiện sự tiến bộ bằng những nội dung mới
sau đây:
Thứ nhất, lần đầu tiên,
nguyên tắc tranh tụng được đưa vào BLTTHS như là sự thừa nhận rằng, tố tụng
hình sự Việt Nam hướng đến nền tố tụng công bằng giữa bên buộc tội với bên bị
buộc tội.
Điều 26 BLTTHS 2015 (nguyên tắc
tranh tụng trong xét xử được bảo đảm) quy định: Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, Điều tra viên, Kiểm
sát viên, người khác có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người bị buộc tội, người
bào chữa và người tham gia tố tụng khác đều có quyền bình đẳng trong việc đưa
ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của
vụ án. Sự bình đẳng giữa bên buộc tội và bên bị buộc tội thể hiện ở chỗ:
- Các bên đều có quyền đưa ra chứng
cứ, kiểm tra tính xác thực, liên quan, hợp pháp của chứng cứ cũng như đánh giá
về giá trị chứng minh của từng chứng cứ cũng như toàn bộ chứng cứ ngay tại
phiên tòa xét xử.
- Mọi chứng cứ xác định có tội, chứng
cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
và những tình tiết khác có ý nghĩa giải quyết vụ án đều phải được trình bày,
tranh luận, làm rõ ngay tại phiên tòa xét xử.
Tại phiên toàn, để Hội đồng xét xử
xem xét một cách khách quan những chứng cứ vụ án, phải có mặt kiểm sát viên, bị
cáo, người bào chữa, bị hại, đương sự, người làm chứng, người giám định, người
định giá tài sản, điều tra viên và những người khác. Sự có mặt của những người
này là bắt buộc. Đặc biệt, Trong quá
trình xét xử, khi xét thấy cần thiết, Hội đồng xét xử có thể triệu tập Điều tra
viên, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã thụ lý, giải quyết vụ án và những
người khác đến phiên tòa để trình bày các vấn đề liên quan đến vụ án. Đây
là điều mà từ trước đến nay chưa từng xảy ra, chưa từng có trong các BLTTHS trước
đó.
Để tranh tụng được bảo đảm tại phiên
tòa xét xử, Điều 26 BLTTHS quy định, Tòa
án có trách nhiệm tạo điều kiện cho Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, những
người tham gia tố tụng khác thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình và tranh
tụng dân chủ, bình đẳng trước Tòa án. Bản án, quyết định của Tòa án phải căn cứ
vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa.
Có thể nói, nguyên tắc tranh tụng đầu
tiên đưa vào BLTTHS 2015 đã được thể chế hóa rất cụ thể trong các quy định liên
quan đến quá trình xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm vụ án hình sự tại các điều
từ Điều 250 đến Điều 362 BLTTHS.
Thứ hai, nguyên tắc suy đoán vô tội lần đầu tiên được ghi nhận chính thức
trong BLTTHS 2015.
Trong các BLTTHS trước đây đã có quy
định một phần nội dung của nguyên tắc này, nhưng không được thừa nhận là nguyên
tắc suy đoán vô tội. Ví dụ, tại Điều 9 BLTTHS 2003 có quy định: Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình
phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Quy
định như vậy không chỉ là chưa đầy đủ về suy đoán vô tội, mà còn dễ dẫn đến suy
luận hiểu sai theo hướng, người bị buộc tội phải chứng minh là mình vô tội, nếu
không chứng minh được sự vô tội của mình có nghĩa là có tội.
Nguyên tắc suy đoán vô tội được quy
định tại Điều 13 BLTTHS 2015: Người bị buộc
tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục
do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự,
thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
phải kết luận người bị buộc tội không có tội. Nội dung của nguyên tắc này tập
trung vào việc:
- Người bị buộc tội chỉ được coi là
có tội khi đã được đưa ra xét xử theo trình tự luật định và có bản án kết tội của
Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
- Người bị buộc tội không buộc phải
chứng minh là mình có tội hay không có tội vì trách nhiệm chứng minh người bị
buộc tội thuộc về các cơ quan và những người có thẩm quyền tố tụng hình sự. Điều
này cũng đồng nghĩa với việc người bị buộc tội có quyền: Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai
chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội.
Do người bị buộc tội được coi là
không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật tố tụng
hình sự quy định, nên: Trước phiên tòa cũng như trong phiên tòa xét xử, bên buộc
tội và bên bị buộc tội đều có quyền bình đẳng trong hoạt động chứng minh. Sự
ghi nhận nguyên tắc suy đoán vô tội BLTTHS 2015 được coi là sự tiến bộ của tố tụng
hình sự Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế khi nhiều nước trên thế giới
thừa nhận nguyên tắc này là nguyên tắc của nền văn minh pháp lý hiện đại trong
bảo vệ quyền con người.
Thứ
ba, BLTTHS 2015 quy định cụ
thể sự tham gia tố tụng của người bào chữa và xóa bỏ những cản trở đã từng xảy
ra khi thực thi BLTTHS 2003.
BLTTHS 2015 đã dành một chương riêng
(Chương V) quy định về người bào chữa, người bảo vệ lợi ích hợp pháp của bị hại,
đương sự. Đây có thể coi là những nội dung gần như hoàn toàn mới, tiến bộ, phản
ánh tố tụng hình sự Việt Nam thực hiện đúng chân lý bất di bất dịch của loài
người đã được ghi nhận hàng nghìn năm nay trong tư pháp hình sự: Ở đâu có sự buộc tội thì ở đó có sự gỡ tội.
Lần đầu tiên khái niệm người bào chữa
được ghi nhận trong BLTTHS. Điều 72 BLTTHS quy định: Người bào chữa là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ
quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định và được cơ quan, người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận việc đăng ký bào chữa. Đồng thời, BLTTHS
không bó hẹp sự tham gia của người bào chữa trong vụ án hình sự. Một người bào
chữa có thể bào chữa cho nhiều người bị buộc tội trong cùng vụ án nếu quyền và
lợi ích của họ không đối lập nhau; và nhiều người bào chữa có thể bào chữa cho
một người bị buộc tội.
Thời điểm Luật sư bào chữa tham gia
tố tụng từ khi khởi tố bị can. Trường hợp bắt, tạm giữ người thì Luật sự bào chữa
tham gia tố tụng từ khi người bị bắt có mặt tại trụ sở của Cơ quan điều tra.
Mặt khác, BLTTHS 2015 quy định mở rộng
hơn diện người được chỉ định bào chữa, không chỉ là bị can, bị cáo về tội mà Bộ
luật hình sự quy định mức cao nhất của khung hình phạt là tử hình, mà còn là
các bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật hình sự quy định mức cao nhất của khung
hình phạt là 20 năm tù, tù chung thân, tử hình (Điều 76 BLTTHS).
Theo quy định của BLTTHS năm 2003, để
được tham gia bào chữa trong vụ án, Luật sư bào chữa phải được cấp Giấy chứng
nhận người bào chữa. Mỗi giai đoạn tố tụng hình sự (điều tra, truy tố, xét xử
sơ thẩm, xét xử phúc thẩm), mỗi cơ quan tiến hành tố tụng cấp Giấy chứng nhận
người bào chữa riêng. Điều này gây nên những trở ngại cho người bào chữa tham
gia tố tụng, nhất là đối với trường hợp bị can đang bị tạm giam. Cơ quan điều tra
thường tạo nên những cản trở cho hoạt động bào chữa. Khắc phục tình trạng này,
BLTTHS 2015 bỏ quy định cấp Giấy chứng nhận người bào chữa, thay vào đó là thủ
tục đăng ký bào chữa.
-
Khi đăng ký bào chữa, người bào chữa phải xuất trình Thẻ luật sư kèm theo bản
sao có chứng thực và giấy yêu cầu luật sư của người bị buộc tội hoặc của người
đại diện, người thân thích của người bị buộc tội;
-
Trong thời gian 24 giờ kể từ khi nhận đủ giấy tờ, cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng phải kiểm tra giấy tờ và thấy đủ điều kiện luật định thì vào sổ
đăng ký bào chữa, gửi ngay văn bản thông báo người bào chữa cho người đăng ký
bào chữa, cơ sở giam giữ và lưu giấy tờ liên quan đến việc đăng ký bào chữa vào
hồ sơ vụ án.
-
Văn bản thông báo người bào chữa có giá trị sử dụng trong suốt quá trình tham
gia tố tụng, trừ trường hợp người bị buộc tội từ chối hoặc đề nghị thay đổi người
bào chữa; hoặc người đại diện hoặc người thân thích của người bị buộc tội từ chối
hoặc đề nghị thay đổi người bào chữa (Điều 78 BLTTHS).
Để người bào chữa thực hiện nhiệm vụ
bào chữa cho người bị buộc tội, Điều 73 BLTTHS quy định rộng hơn quyền của người
bào chữa so với BLTTHS 2003 như:
-
Người bào chữa được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng báo trước về thời
gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động
điều tra khác;
-
Có quyền thu thập chứng cứ; kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ,
tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm
tra, đánh giá;
-
Có mặt trong hoạt động đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói và hoạt động điều
tra khác;
-
Đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ
sung, giám định lại, định giá lại tài sản; đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp
ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong
hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa từ khi kết thúc điều tra v.v….
BLTTHS 2003 không quy định người bị
tố giác, người bị kiến nghị khởi tố có quyền có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp. BLTTHS 2015 đã bổ sung nội dung này bằng quy định người bị tố giác, người
bị kiến nghị khởi tố có quyền có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
mình. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố có thể là: Luật sư.
Trong trường hợp này, Luật sư có quyền:
-
Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
-
Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan
và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;
-
Có mặt khi lấy lời khai người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố;
-
Có mặt khi đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói người bị tố giác, người bị
kiến nghị khởi tố;
-
Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành
tố tụng (Điều 83 BLTTHS).
Thứ tư, việc lấy lời khai những
người tham gia tố tụng và hỏi cung bị can cũng có những nội dung mới như sau:
Việc hỏi cung bị can do Điều tra
viên tiến hành ngày sau khi có quyết định khởi tố bị can. Trước khi hỏi cung bị can, Điều tra viên phải thông báo cho Kiểm sát
viên và người bào chữa thời gian, địa điểm hỏi cung. Trước khi tiến hành hỏi
cung lần đầu, Điều tra viên phải giải thích cho bị can biết rõ quyền và nghĩa vụ
theo quy định tại Điều 60 của Bộ luật này. Việc này phải ghi vào biên bản.
Mỗi
lần hỏi cung bị can đều phải lập biên bản. Nghiêm cấm Điều tra viên, Cán bộ điều
tra tự mình thêm, bớt hoặc sửa chữa lời khai của bị can.
BLTTHS
quy định việc hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm chứng, lấy lời khai người
bị hại, đương sự, đối chất có thể hoặc phải được ghi âm, ghi hình có âm thanh.
Việc ghi âm, ghi hình có âm thanh
trong hỏi cung bị can, lấy lời khai, đối chất không được quy định trong BLTTHS
2003. Trong thực thế đã có một số vụ án hình sự, bị can ra trước phiên tòa khai
bị những người có thẩm quyền tố tụng dùng nhục hình, bị mớm cung, bức cung, dụ
cung buộc họ phải khai sai sự thật. Để tránh xảy ra những trường hợp này,
BLTTHS 2015 quy định: Việc hỏi cung bị
can tại cơ sở giam giữ hoặc tại trụ sở Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm
vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải được ghi âm hoặc ghi hình có âm
thanh. Việc hỏi cung bị can tại địa điểm khác được ghi âm hoặc ghi hình có âm
thanh theo yêu cầu của bị can hoặc của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng (Điều 183 BLTTHS).
Ngoài ra, việc lấy lời khai của người
làm chứng, lấy lời khai của bị hại, đương sự (nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự), đối chất có thể ghi
âm hoặc ghi hình có âm thanh (các điều 187, 188, 189 BLTTHS), tùy theo từng trường
hợp cụ thể.
Việc sử dụng (nghe, xem) nội dung được
ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh, Điều 313 BLTTHS 2015 quy định: Trường hợp cần kiểm tra chứng cứ, tài liệu,
đồ vật liên quan đến vụ án hoặc khi bị tố cáo, bị bức cung, dùng nhục hình, Hội
đồng xét xử quyết định việc cho nghe, xem nội dung được ghi âm hoặc ghi hình có
âm thanh liên quan tại phiên tòa.
Nghị quyết số 110/2015/QH13 ngày
27/11/2015 của Quốc hội giao Bộ trường Bộ Công an chủ trì, phối hợp với Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Bộ trưởng
Bộ Quốc phòng, Bộ trường Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ trưởng Bộ Tài chính và Bộ
trưởng Bộ Nội vụ xây dựng đề án về cơ sở vật chất, bộ máy, cán bộ và lộ trình cụ
thể thực hiện việc ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh việc hỏi cung bị can theo
quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Chậm nhất đến ngày 01/01/2019
thì thực hiện thống nhất việc ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh việc hỏi cung bị
can trên phạm vi toàn quốc.
Thứ năm, những quy định mới về
xét xử vụ án có liên quan đến luật sư bào chữa.
Luật sư bào chữa phải có mặt tại
phiên tòa để bào chữa cho người mà mình đã nhận bào chữa. Người bào chữa có thể
gửi trước bản bảo chữa cho Tòa án. Trường hợp người bào chữa vắng mặt lần thứ
nhất vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan thì Tòa án phải hoãn
phiên tòa, trừ trường hợp bị cáo đồng ý xét xử vắng mặt người bào chữa. Nếu người
bào chữa vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách
quan hoặc được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì Tòa án vẫn mở
phiên tòa xét xử.
Trường hợp chỉ định người bào chữa
quy định tại khoản 1 Điều 76 của Bộ luật này mà người bào chữa vắng mặt thì Hội
đồng xét xử phải hoãn phiên tòa, trừ trường hợp bị cáo hoặc người đại diện của
bị cáo đồng ý xét xử vắng mặt người bào chữa.
Tại phiên tòa, Luật sư bào chữa có
quyền trình bày ý kiến, đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận của mình để đối
đáp với Kiểm sát viên về những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội;
tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; hậu quả do hành vi
phạm tội gây ra; nhân thân và vai trò của bị cáo trong vụ án; những tình tiết
tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, mức hình phạt; trách nhiệm dân sự, xử
lý vật chứng, biện pháp tư pháp; nguyên nhân, điều kiện phạm tội và những tình
tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án. Luật sư bào chữa có quyền đưa ra đề nghị của
mình liên quan đến việc giải quyết vụ án.
Kiểm sát viên phải đưa ra chứng cứ,
tài liệu và lập luận để đối đáp đến cùng từng ý kiến của người bào chữa. Chủ tọa
phiên tòa không được hạn chế thời gian tranh luận, phải tạo điều kiện cho Kiểm
sát viên, Luật sư bào chữa tranh luận, trình bày hết ý kiến nhưng có quyền cắt
những ý kiêns không liên quan đến vụ án và ý kiến lặp lại. Chủ tọa phiên tòa
yêu cầu Kiểm sát viên phải đáp lại những ý kiến của Luật sư bào chữa mà những ý
kiến đó chưa được Kiểm sát viên tranh luận.
Hội đồng xét xử phải lắng nghe, ghi
nhận đầy đủ ý kiến của Kiểm sát viên, luật sư bào chữa tranh luận tại phiên tòa
để đánh giá khách quan, toàn diện sự thật của vụ án. Trường hợp không chấp nhận
ý kiến của Luật sư bào chữa tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử phải nêu rõ lý do
và được ghi trong bản án.
Trên đây là những nội dung mới trong
BLTTHS 2015 về quyền của Luật sư bào chữa.
Luật
sư GS.TS. Đỗ Ngọc Quang
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét