Mang thai hộ và cái nhìn ngược chiều kim đồng hồ
Thứ Sáu, 12 tháng 9, 2014
Trong bài viết trước đã đề cập lên những mặt tích cực của "mang thai hộ." Tuy nhiên, xem xét hai mặt của một vấn đề là điều cần thiết để tăng cường tính hiệu quả cho quy định này. Dưới cái nhìn ngược chiều kim đồng hồ xuất hiện nhiều vấn đề mà pháp luật không thể không quan tâm. Lần đầu tiên có một quy định được thông qua với tỷ lệ chỉ
quá bán một chút, thay vì gần như là tuyệt đối. Điều đó cho thấy băn khoăn của
các Đại biểu Quốc hội nói riêng và người dân nói chung.
Nó xuất phát trước hết từ yếu tố đạo đức, tinh thần và truyền thống
của người Việt. Một đứa trẻ - tuy về mặt y học và pháp luật vẫn là con của
mình, nhưng không phải do mẹ mang nặng đẻ đau, trực tiếp sinh ra thì vấn đề
tình cảm ít nhiều bị ảnh hưởng. Thêm vào đó, việc Luật quy định người mang thai
hộ phải là người thân thích sẽ gây ra những rắc rối, những trở ngại về mặt tâm
lý giữa hai bên. Và người chịu ảnh hưởng nhiều nhất, chịu hậu quả pháp lý và xã
hội một cách hoàn toàn thụ động chính là đứa trẻ được sinh ra từ việc mang thai
hộ.
Đứa
trẻ sinh ra sẽ sống như thế nào trong mối quan hệ phức tạp như thế? Trẻ không thể gọi
người mang thai, sinh ra mình là mẹ. Trong hồ sơ pháp lý cá nhân, phần khai về
người mẹ trước đây chỉ có có nội dung mẹ ruột, mẹ nuôi, nay lại cần thiết phải
bổ sung nội dung “mẹ mang thai hộ”?
Điều này rất khó xử lý và suy cho cùng không mang lại ý nghĩa tích cực, ít nhất
là trong tình hình kinh tế xã hội như hiện nay.
(Ảnh sưu tầm)
Một số điểm bất cập có thể kể đến trong quy định này như hiệu quả
chưa rộng, tính khả thi không cao, khó áp dụng trên thực tế. Cụ thể:
Thứ nhất, về điều kiện quy định người mang thai hộ phải là người thân thích cùng
hàng bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ. Quy định như vậy có thể nhằm hạn
chế tình trạng thương mại hóa hoặc phát sinh tranh chấp xung quanh hành vi này.
Nhưng về bản chất, nếu đảm bảo các quy định liên quan đến thỏa thuận mang thai
hộ, quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia được điều chỉnh toàn diện, cụ thể và
chặt chẽ thì không nhất thiết chỉ giới hạn trong phạm vi “người thân thích.” Trên
thực tế, nhiều trường hợp những cặp vợ chồng hiếm muộn khao khát có một đứa con
nhưng không có người thân thích hoặc người thân thích không đảm bảo các điều kiện
theo quy định của Luật. Nếu quy định chỉ giới hạn trong phạm vi nhỏ như vậy rõ
ràng là vấn đề đã đặt ra nhưng chưa được giải quyết triệt để, người có nhu cầu
vì vậy vẫn phải tiến hành
dưới dạng “chui”, có hoàn cảnh
phải ra nước ngoài thực hiện trái phép việc mang thai hộ.
Thứ
hai, trong
số hơn 700.000 cặp vợ chồng hiếm muộn tại Việt Nam hiện nay, những người được
xác định “không thể mang thai và sinh con
ngay cả khi đã áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản” chiếm tỷ lệ không cao, hầu
hết là những phụ nữ gặp vấn đề như không có buồng trứng, không có tử cung hoặc tử cung dị dạng.
Nhưng nguyên nhân khiến phụ nữ vô sinh thì rất nhiều: do sức khỏe yếu như bị
các bệnh về tim, về thận; các bệnh về nội tiết tố ... Họ rất khó để có thể mang
thai, hoặc có thì cơ hội giữ được cũng rất nhỏ chứ không phải hoàn toàn hết hi
vọng. Nên chăng chỉ giới hạn điều kiện để vợ chồng được nhờ mang thai hộ ở mức
độ thấp hơn, ví dụ: “phải có xác nhận của
tổ chức y tế có thẩm quyền về việc người vợ khó mang thai và sinh con ngay cả
khi đã áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.”
Thứ
ba, theo
quy định, cả hai bên tham gia thỏa thuân mang thai hộ đều phải được tư vấn về y
tế, pháp lý, tâm lý. Việc tư vấn được thực hiện như thế nào? Do cơ sở nào thực
hiện? Cần có giấy tờ gì chứng minh kết quả này? Nhưng trên hết là quy định như
vậy có khả thi hay không khi những người có nhu cầu phải trải qua một loạt các
quy trình thủ tục phức tạp và rất tốn kém, trong khi chi phí cho việc mang thai
hộ vốn không hề nhỏ.
Thứ
tư, hai
bên sẽ tự thỏa thuận với nhau về thời điểm giao con. Trường hợp nếu phát sinh
tranh chấp trong việc giao – nhận con thì các bên có thể khởi kiện ra Tòa án.
Tuy nhiên, thời gian kiện tụng thông thường nhanh thì vài tháng, chậm thì có thể
tính bằng năm, khi đó vấn đề chăm sóc, nuôi dưỡng và bảo đảm các quyền pháp định
cho trẻ do ai thực hiện? Theo quy định của pháp luật về đăng ký và quản lý hộ tịch,
khi đi khai sinh cần có giấy chứng sinh do cơ sở y tế nơi trẻ sinh ra cấp.
Nhưng trên thực tế, người sinh ra trẻ và người mẹ thực sự là hai cá nhân khác
nhau, vậy việc đăng ký khai sinh sẽ được giải quyết như thế nào? Trẻ chưa được
khai sinh sẽ không được hưởng các quyền lợi khác, ví dụ như được khám chữa bệnh miễn phí khi dưới 6 tuổi;
được miễn học phí khi được đào tạo tại các trường tiểu học công lập; quyền được
hưởng các chính sách hỗ trợ, chăm sóc, bảo vệ của địa phương, Nhà nước ...
Dưới cái nhìn đa chiều, một vấn đề dù tích cực đến đâu cũng không thể tránh khỏi một số điểm hạn chế. Đây cũng là những yếu tố cần cân nhắc để cơ quan hành pháp chú trọng và ban hành các văn bản dưới luật có tính hiệu quả.
------------------------------------------
Hồng Mây
Tập sự Luật sư
Công ty Luật Trung Nguyễn
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét