Luật cho phép mang thai hộ, tình trạng đẻ thuê còn diễn ra?
Thứ Bảy, 12 tháng 7, 2014
(ĐSPL) - Mang thai hộ chính thức đi vào luật. Thuyết phục được
Quốc hội vì tinh thần nhân đạo tốt đẹp, đồng thời cũng là dấu ấn pháp lý đáp ứng
nguyện vọng của hơn 700.000 cặp vợ chồng hiếm muộn tại Việt Nam hiện nay. (Theo
số lượng thống kê cuối năm 2013). Tuy nhiên, vấn đề này vẫn nhận không ít băn
khoăn về những hậu quả khôn lường nếu không được điều chỉnh toàn diện, cụ thể
và chặt chẽ ...
Với tỷ lệ 79,52% Đại biểu tán thành, chiều 19/06
Quốc hội đã thông qua Dự thảo Luật Hôn nhân và gia đình (sửa đổi) với nhiều nội dung quan trọng, luật này sẽ chính thức có
hiệu lực từ ngày 1/1/2015. Trong đó, vấn đề “mang thai hộ” từ lâu đã nhận được sự quan tâm nhất định của người
dân, cùng với đó là nhiều quan điểm trái chiều.
Theo Luật
Hôn nhân và Gia đình sửa đổi,
mang thai hộ là hành vi dùng phương pháp hỗ trợ sinh sản, lấy noãn của người vợ
và tinh trùng của người chồng để làm thụ tinh trong ống nghiệm. Khi noãn và
tinh trùng gặp nhau tạo thành phôi sẽ chuyển phôi vào dạ con của người phụ nữ
khác. Lúc này, tử cung của người mang thai hộ sẽ giống như vườn ươm cho thai
nhi.
Luật Hôn
nhân gia đình trước đây chưa có quy định đề cập đến vấn đề này. Tuy
nhiên, Nghị định số 12/2003/NĐ-CP ngày 12/2/2003 của Chính phủ về sinh con theo
phương pháp khoa học đã coi đây là hành vi bị nghiêm cấm (khoản 1 Điều 6). Lần
đầu tiên mang thai hộ được thừa nhận khi Quốc hội quyết định thông qua Luật
sửa đổi bổ sung một số điều của Luật hôn nhân và gia đình. Sự điều chỉnh
này được đông đảo người dân đón nhận, bởi đây là quy định xuất phát từ tính nhân
đạo, nhân văn và chính từ những thực tiễn trong xã hội. Điều này đã được minh
chứng ở việc cho dù luật pháp không điều chỉnh thì tình trạng mang thai hộ, “đẻ thuê” … vẫn diễn ra. Tham gia vào
nhiều diễn đàn xã hội lớn có đông đảo các bậc phụ huynh quan tâm, không khó để
bắt gặp những Chủ đề như: “Vợ chồng mình lấy nhau đã nhiều năm, nhưng
do hoàn cảnh nên không thể tự mang thai. Mình cần tìm người mang thai hộ, điều
kiện là …” hoặc “Mình năm nay 25 tuổi, đã sinh con một lần.
Do hoàn cảnh gia đình quá khó khăn, đồng thời cũng để tạo điều kiện giúp đỡ cho
các bố, mẹ hiếm muộn nên mình đồng ý mang thai hộ. Liên hệ với mình qua địa chỉ
…” Tuy nhiên, vì đây là hành vi bị cấm cho nên việc tiến hành đều được
thực hiện dưới dạng “chui”, không có
cơ sở nào được đưa ra để quy định quyền và nghĩa vụ của mỗi bên khi tham gia
giao dịch này, cũng có nghĩa là không được pháp luật bảo vệ, nhiều hệ lụy xảy
ra khi giữa các bên có phát sinh tranh chấp. Một số người đã lợi dụng tình trạng
hiếm muộn, sự khao khát có một đứa con của chính các cặp vợ chồng trẻ để đem ra
ra kinh doanh, lừa đảo.
(Ảnh sưu tầm)
Như vậy,
mang thai hộ không chỉ dừng lại ở hiện tượng xã hội, mà nó còn là nhu cầu xã hội.
Cùng với Nhà nước, pháp luật ra đời nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội,
pháp luật là phương tiện, công cụ quan trọng để duy trì, bảo vệ trật tự, tạo điều
kiện và định hướng cho sự phát triển xã hội. Đó cũng chính là lý do tại sao việc
cụ thể hóa vấn đề này dưới góc độ pháp luật lại được đông đảo người dân đón nhận
đến vậy.
Dưới góc độ
pháp lý, Luật Hôn nhân và gia đình (sửa
đổi) đã đưa ra định hướng rất rõ ràng, theo đó việc mang thai hộ phải đáp ứng
những điều kiện cơ bản nhất định và kiểm soát chặt chẽ. Theo đó, về điều kiện
mang thai hộ được quy định cụ thể tại Điều 95, theo đó việc quy định đối
tượng thực hiện phương pháp chỉ có những người thân thích cùng hàng bên vợ hoặc
chồng đã giải quyết được tối ưu tình trạng cò mồi, kinh doanh, lừa đảo hay
thương mại hóa hành động vốn rất nhân văn này.
Về khái niệm
“người thân thích” đã được giải thích tại khoản 19 Điều 3 Luật Hôn nhân &
gia đình (sửa đổi), cụ thể: “là người có
quan hệ hôn nhân, nuôi dưỡng, người có cùng dòng máy về trực hệ và người có họ
trong phạm vi ba đời”. Các khái niệm được nêu tại điều luật trên như quan hệ
hôn nhân, nuôi dưỡng, người có cùng dòng máu về trực hệ và người có họ trong phạm
vi ba đời cũng đã được Luật hôn nhân & gia đình (sửa đổi) giải thích cụ thể
tại khoản 16, 17, 18 Điều 3.
Không chỉ vậy,
đối tượng nêu trên cần phải đảm bảo các yêu cầu khác liên quan đến sức khỏe sinh
sản như độ tuổi, đã từng sinh con, đã được tư vấn về tâm lý. Đồng thời, nếu là
người đã có gia đình thì phải được sự đồng ý bằng văn bản của người chồng (Điều
95 Luật Hôn nhân & gia đình (sửa đổi) … nhằm hạn chế tối đa những hậu quả
không tốt phát sinh từ quá trình mang thai hộ.
Cũng theo Điều
95, mang thai hộ chỉ được đặt ra đối với những cặp vợ chồng không có
con chung, phải có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về việc người vợ
không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản và
đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý. Việc mang thai hộ phải xuất phát trên
cơ sở hoàn toàn tự nguyện của mỗi bên và bắt buộc phải lập thành văn bản. Quy định
như vậy xuất phát từ tính nhân đạo, đáp ứng nguyện vọng cho những đối tượng thực
sự khát khao được làm cha, làm mẹ; đồng thời đảm bảo tiêu chí của chính sách
dân số - kế hoạch hóa gia đình; hạn chế tình trạng vì hủ tục, vì tư tưởng lạc hậu
(đơn cử như những trường hợp đã có con
gái, nay mong muốn có thêm con trai nối dõi tông đường hoặc ruyền thống của gia
đình phải sinh nhiều con để hưng vượng …)
Ngoài ra, Luật Hôn nhân và gia đình (sửa đổi) cũng có các điều khoản để giải
quyết những rắc rối phát sinh về vấn đề mang thai hộ. Trong đó đáng chú ý có việc
sinh con do mang thai hộ sẽ không tính vào số con của người mang thai hộ. Trong
trường hợp bên nhờ mang thai hộ từ chối nhận con thì bên kia có quyền yêu cầu
Tòa án buộc họ nhận con. Ngược lại, nếu bên mang thai hộ từ chối giao con thì Tòa
án có quyền ra quyết định buộc giao con. Tại Điều 94 Luật này khẳng định:“Con sinh ra trong trường hợp mang thai hộ
vì mục đích nhân đạo là con chung của vợ chồng nhờ mang thai hộ kể từ thời điểm
con được sinh ra.” Theo Điểm a, khoản 1 Điều 676 Bộ luật dân sự
hiện hành quy định thì những người thừa kế theo pháp luật thuộc hàng thừa kế thứ
nhất bao gồm: “Vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ
nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết.” Nghĩa là, nếu
bên nhờ mang thai hộ qua đời thì đứa bé này có quyền được hưởng thừa kế theo
quy định của pháp luật đối với di sản. Bên cạnh đó các nghĩa vụ về cấp dưỡng và
nuôi dưỡng đứa trẻ cũng bắt đầu phát sinh đối với người nhờ mang thai hộ kể từ
khi đứa trẻ được sinh ra… Đây là những quy định xuất phát từ thực tế, đảm bảo
tính nhân đạo nhưng đồng thời cũng phải được quy định thật rõ ràng, chi tiết,
tránh tình trạng tạo kẽ hở trong “công cuộc
cải cách tinh thần mang tính bước nhảy” này. Đồng thời, Chính phủ phải có
trách nhiệm ban hành các văn bản dưới Luật hướng dẫn cụ thể vấn đề này để ý
nghĩa nhân văn của mang thai hộ được thực thi nghiêm chỉnh trên thực tế. Thêm một
cơ hội làm cha làm mẹ được mở ra cho tất cả các cặp vợ chồng, cơ hội để có thêm
những gia đình trọn vẹn với tiếng khóc, cười của con trẻ.
------------------------------------------
Hồng Mây
Tập sự Luật sư
Công ty Luật Trung Nguyễn
Theo báo Đời sống & pháp luật
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét