
Bất cập trong Thông tư liên tịch hướng dẫn điều 205 BLHS về tội “Điều động hoặc giao cho người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ”.
Thứ Năm, 10 tháng 7, 2014
(Luật Trung Nguyễn) - Chưa có những tiêu chí, hay điều kiện cụ thể để đối
chiếu trong việc xác định một người được xem là đủ điều kiện về sức khỏe, am hiểu
quy định pháp luật về giao thông đường bộ … Hay việc xác định “sự phản đối” của
người bị điều động khi nhận thức được mình không có đủ các điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ
là một trong những bất cập trong Thông tư liên tịch số 09/2013/ TTLT-BCA-BQP-BTP-VKSNDTC-TANDTC hướng dẫn áp
dụng quy định tại Chương XIX của Bộ luật hình sự về các tội xâm phạm trật tự,
an toàn giao thông.
(Hình ảnh - minh họa)
Theo quy định Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật
2008, thì thông tư liên tịch giữa các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ được
ban hành để hướng dẫn thi hành luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị
quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, nghị định
của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng Chính phủ có liên quan đến chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của bộ, cơ quan ngang bộ đó. Vậy nhưng không phải thông tư
liên tịch nào được ban hành cũng có những hướng dẫn thi hành cụ thể, rõ ràng
giúp việc áp dụng pháp luật được thống nhất. Đôi khi chính những hướng dẫn này,
lại càng phức tạp thêm những quy định cần được hướng dẫn trước đó. Thông tư
liên tịch số 09/2013/TTLT-BCA-BQP-BTP-VKSNDTC-TANDTC hướng dẫn áp dụng quy định
tại Chương XIX của Bộ luật hình sự về các tội xâm phạm trật tự, an toàn giao
thông, trong đó có Điều 5 chương II hướng dẫn về tội “điều động hoặc giao cho
người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ” (Điều
205 Bộ luật hình sự) là một ví dụ cụ thể:
“Người nào điều
động hoặc giao cho người không có giấy phép lái xe hoặc bằng lái xe hoặc không
đủ các điều kiện khác theo quy định của pháp luật điều khiển các phương tiện
giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng
cho sức khỏe, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ…”
Qua thực tiễn áp dụng quy định của Điều 205 đã cho
thấy xuất hiện một số tồn tại, bất cập dẫn đến việc giải thích, áp dụng trong
thực tế khó khăn, không thống nhất giữa các tòa. Cụ thể là cụm từ “không đủ các
điều kiện khác theo quy định của pháp luật”, do chưa có văn bản hướng dẫn các
điều kiện khác ở đây là gì chưa được làm rõ. Chính điều này đã dẫn đến việc
lúng túng và thiếu thống nhất của các tòa trong việc xét xử. Khắc phục tính trạng
này, tại khoản 1 Điều 5 chương II Thông tư liên tịch số
09/2013/TTLT-BCA-BQP-BTP-VKSNDTC-TANDTC, đã có quy định giải thích rõ về trường
hợp này. Theo đó, thì người không đủ điều kiện các điều kiện khác theo quy định
của pháp luật quy định tại khoản 1 Điều 205 Bộ luật hình sự 1999 là người không am hiểu các quy định về trật
tự, an toàn giao thông đường bộ; người không đủ sức khỏe, độ tuổi để điều khiển
phương tiện; người do tình trạng sức khỏe không thể tự chủ điều khiển được tốc
độ; người đang trong tình tạng say do sử dụng ma túy, rượu, bia hoặc các chất
mà sau khi sử dụng có biểu hiện say như người sử dụng ma túy, rượu, bia. Theo
như giải thích trên thì mặc dù đã có sự liệt kê các trường hợp được coi là
không đủ các điều kiện khác theo quy định của luật. Nhưng nếu khi đưa giải
thích này để áp dụng trong thực tiễn thì vẫn chưa thật sự rõ ràng, như việc xác
định một người không am hiểu các quy định về trật tự, an toàn giao thông đường
bộ là người như thế nào? Cần chứng chỉ hay một xác nhận của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền về việc này? Hay việc xác định người không đủ sức khỏe, người do
tình trạng sức khỏe không thể tự chủ điều khiển được tốc độ…lấy tiêu chuẩn ở
đâu để xác định trong trường hợp này? Luật giao thông đường bộ 2008 mặc dù đã
có quy định về việc xác định sức khỏe là một trong những điều kiện bắt buộc của
người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ (Khoản 1 Điều 58 Luật giao
thông đường bộ), tại khoản 2 Điều 60 về sức khỏe của người lái xe thì cũng mới
chỉ dừng lại ở quy định mang tính chất chung chung như “người lái xe phải có sức
khỏe phù hợp với loại xe, công dụng của xe”. Thực hiện nhiệm vụ được xác định
trong Nghị quyết số 32/2007/NQ-CP ngày 29/6/2007 của Chính phủ, sự chỉ đạo của
Thủ tướng Chính phủ tại công văn số 1992/TTg-CN ngày 21/12/2007 về sản xuất, lắp
ráp, nhập khẩu và lưu hành xe ba bánh, xe cơ giới dùng cho người tàn tật, thì Bộ
y tế đã ban hành hai quyết định số 33/2008/QĐ-BYT ngày 30/9/2008 của Bộ trưởng
Bộ Y tế về việc ban hành Tiêu chuẩn sức khỏe người điều khiển phương tiện giao
thông cơ giới đường bộ và Quyết định số 34/2008/QĐ-BYT ngày 30/9/2008 của Bộ
trưởng Bộ y tế về việc ban hành Tiêu chuẩn sức khỏe người khuyết tật điều khiển
xe mô tô, xe gắn máy ba bánh dùng cho người khuyết tật. Nhưng sau đó cũng chính
Bộ Y tế đã ra quyết định số 4392/QĐ-BYT ngày 08/11/2008 về việc bãi bỏ hai Quyết
định số 33/2008/QĐ-BYT và Quyết định số 34/2008/QĐ-BYT. Và cho đến nay thì vẫn
chưa có một hướng dẫn nào từ phía Bộ Y tế về việc xác định tiêu chuẩn hay điều
kiện sức khỏe đối với người điều khiển phương tiện giao thông cơ giới đường bộ.
Hy vọng trong thời gian tới các cơ quan có thẩm quyền sớm đưa ra những văn bản
hướng dẫn việc xác định tiêu chuẩn, điều kiện về sức khỏe của người điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ để việc vận dụng quy định trên được cụ thể, rõ
ràng.
Cũng tại hướng
dẫn về tội điều động hoặc giao cho người không đủ điều kiện điều khiển các
phương tiện giao thông đường bộ, tại khoản 2 Điều 5 chương II có quy định:
“2. Khi áp dụng Điều luật này cần chú ý:
“…Trường hợp người
được điều động đã đề đạt, từ chối thực hiện nhiệm vụ được giao nhưng vẫn phải
chấp hành sự điều động đó thì họ không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm
theo quy định tại Điều 202 Bộ luật hình sự”.
Có thể nhận thấy đây là một hướng dẫn chưa hợp lý,
khi mà việc loại trừ trách nhiệm hình sự đối với người được điều động điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ mặc dù không đủ điều kiện theo quy định của
pháp luật, lại chỉ dựa trên căn cứ là việc người điều động đã đề đạt, từ chối
thực hiện nhiệm vụ được giao nhưng vẫn phải chấp hành sự điều động đó. Trong
khi đó người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ là người biết rõ nhất
việc mình có đủ điều kiện điều khiển phương tiện giao thông đường bộ hay không,
nên nếu không phải chấp hành những mệnh lệnh mang tính chất bắt buộc phải thực
hiện như trong lực lượng vũ trang thì hoàn toàn có thể từ chối không thực hiện
sự điều động đó. “Điều động” có thể được hiểu là việc yêu cầu cho người được điều
động di chuyển đến nơi nào đó nhằm đáp ứng yêu cầu của công tác hoặc chiến đấu.
Như vậy, có thể cho rằng việc điều động chỉ có thể xuất hiện trong trường hợp
khi mà giữa người điều động và người được điều động có quan hệ phụ thuộc, lệ
thuộc như cấp trên, cấp dưới; lãnh đạo với nhân viên; người sử dụng lao động với
người lao động. Điều này được thể hiện qua Luật công an nhân dân 2005; Luật cán
bộ, công chức 2008; Bộ luật lao động 2013; Luật sĩ quan quân đội nhân dân Việt
nam 1999, đều có sử dụng cụm từ “Điều động”. Trong khi đó Bộ luật dân sự 2005,
điều chỉnh về các quan hệ dựa trên sự “thỏa thuận”, bình đẳng không có quan hệ
phụ thuộc, hay mệnh lệnh lại không sử dụng cụm từ “điều động” mà sử dụng từ
“giao” cho các quan hệ mà mình điều chỉnh. Có thể nói giải thích như trên là
phù hợp khi mà tại khoản 2 Điều 5 chương II TTLT 09/2013/TTLT-BCA-BQP-BTP-VKSNDTC-TANDTC
chỉ nhắc đến việc “điều động” và không nói đến việc “giao”.
Bên cạnh đó, quy định cũng chưa có sự giải thích rõ
ràng về căn cứ người được điều động đã từ chối thực hiện sự điều động. Việc từ
chối này bằng miệng, hay phải bằng văn bản, mức độ từ chối ra sao, hay việc từ
chối được thể hiện ở một dạng hành vi nào khác có được chấp nhận hay không? Gỉa
sử người được điều động đã nhận sự điều động mà không có bất cứ sự từ chối nào,
sau khi sự việc xảy ra lại nói rằng mình đã từ chối sự điều động đó?
Thiết nghĩ hướng dẫn này chỉ phù hợp với những trường
hợp người được điều động là người hiện đang phục vụ trong quân đội nhân dân,
nơi mà tính kỷ luật và sự chấp hành mệnh lệnh cấp trên rất cao và nghiêm ngặt. Còn
với các trường hợp khác thì tùy từng trường hợp để xem xét áp dụng, không nên
viện dẫn hướng dẫn này để áp dụng cho tất cả các trường hợp mà có sự điều động.
---------------------------------
Vũ Quang Bá
Tập sự Luật sư
Công ty Luật Trung Nguyễn
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét