Vỡ đất
Thứ Ba, 17 tháng 6, 2014
“Thập niên tu đắc đồng
thuyền độ, bách niên tu đắc cộng chẩm miên”
– Tu 10 năm mới được đồng thuyền, tu trăm năm mới nên duyên vợ chồng. Thế nhưng
khi tình nghĩa đã cạn thì chỉ còn những tranh chấp mà thôi.
(Ảnh sưu tầm)
Phong tục tập quán người Việt từ ngàn đời xưa cha mẹ
thường tạo điều kiện cho con cái làm ăn, sinh sống trên mảnh đất mà ông bà tổ
tiên để lại. Việc cho mượn, tặng cho đất đai như vậy hầu hết không được tiến
hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định mà thông thường chỉ thông qua
lời nói. Lấy chồng theo chồng. từ kết hôn, làm ăn, sinh con đẻ cái, xây dựng
nhà cửa, tài sản đều trên mảnh đất đó. Nhưng đến khi thay lòng đổi dạ, mỗi người
một nơi mới dẫn đến tranh chấp. Đất đó thuộc sở hữu của cá nhân ai hay được coi
là tài sản chung của vợ chồng? Hay vẫn thuộc sở hữu của cha mẹ? Dưới đây là quan
điểm cá nhân của tôi theo lăng kính pháp luật về trường hợp “vỡ đất” này.
Điều 467 Bộ luật dân sự quy định về tặng cho tài sản là bất động sản
như sau:
“1. Tặng cho bất động
sản phải được lập thành văn bản có công chứng, chứng thực hoặc phải đăng ký, nếu
theo quy định của pháp luật bất động sản phải đăng ký quyền sở hữu.
2. Hợp đồng tặng
cho bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký; nếu bất động sản không phải
đăng ký quyền sở hữu thì hợp đồng tặng cho có hiệu lực kể từ thời điểm chuyển
giao tài sản.”
Như vậy, vấn đề tặng cho bất động sản bắt buộc phải
tuân thủ quy định về hình thức có hiệu lực của hợp đồng: tức là phải được lập
thành văn bản, có công chứng, chứng thực hoặc phải đăng ký theo quy định của
pháp luật. Vì vậy, với đặc điểm văn hóa, phong tục, tập quán tại nhiều địa
phương, cha mẹ cho mượn, tặng hoặc cho con một phần đất để cất nhà ở khi người
con lập gia đình thường chỉ thực hiện bằng lời nói hoặc hành vi. Như vậy, liệu
quyền lợi của người phụ nữ khi ly hôn có được đảm bảo – nhất là ở những nơi tư
tưởng phong kiến còn nặng nề, coi người phụ nữ chỉ ở nhà nội trợ là thứ yếu? Nếu
vợ, chồng không có giấy tờ tặng cho tài sản có công chứng, chứng thực của các
cơ quan có thẩm quyền; chưa làm thủ tục sang tên trước bạ … thì phải chăng toàn
bộ tài sản do hai vợ chồng gây dựng trên mảnh đất ấy, bao gồm cả ngôi nhà, hoa
màu … vẫn thuộc quyền sở hữu của cha mẹ? Với tiêu chí đảm bảo tối ưu quyền lợi
của người phụ nữ và trẻ em, Điều 95 Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã quy định về nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn
như sau:
“Việc chia tài sản
khi ly hôn do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án
giải quyết. Tài sản riêng của bên nào thì thuộc quyền sở hữu của bên đó. …Tài sản
chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi, nhưng có xem xét hoàn cảnh của
mỗi bên, tình trạng tài sản, công sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập,
duy trì, phát triển tài sản này. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi
như lao động có thu nhập; Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành
niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả
năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình; Bảo vệ lợi ích chính đáng của
mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp
tục lao động tạo thu nhập; Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật
hoặc theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn
phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần giá trị chênh lệch…”.
Những quy định nêu trên là điều kiện cần để bảo vệ quyền
lợi của người phụ nữ khi ly hôn, nhưng liệu đó đã phải điều kiện đủ? Đây chính
là vấn đề nhức nhối và tương đối phổ biến trong xã hội. Trước đây về vấn đề
này, Tòa án nhân dân tối cao có tổng kết và hướng dẫn tại Công văn số 16 ngày
01/02/1999 như sau:
“Trường hợp vợ, chồng sau khi kết hôn cất nhà ở trên đất
của cha mẹ bên vợ (hoặc chồng) nhưng không có giấy tờ gì thể hiện là được cho tặng
quyền sử dụng đất đó; khi ly hôn, cha mẹ bên vợ (hoặc chồng) nói là chỉ cho mượn
đất nhưng nếu phần đất cất nhà ở riêng biệt với đất cha mẹ đang sinh sống hoặc
trên cùng thửa đất nhưng đã có ranh giới, khuôn viên rõ ràng. Vợ chồng cất nhà
sinh sống, ổn định, lâu dài, xây dựng các công trình trên đất cha mẹ biết nhưng
không phản đối… thì Tòa xác định quyền sử dụng đất gắn liền nhà hoặc quyền sử dụng
đất là tài sản chung của vợ chồng và chia theo quy định nhưng có xét đến công sức
đóng góp của mỗi bên...”
Đây là một hướng dẫn đúng đắn, hợp tình, hợp lý và bảo
vệ được quyền lợi của người phụ nữ trong xu thế phát triển của xã hội cần được
pháp điển hóa và áp dụng song song với Luật Hôn nhân và gia đình. Có được như vậy
sẽ hạn chế những vụ án ly hôn, hạn chế tranh chấp và bảo vệ được quyền lợi của
phụ nữ, trẻ em. Theo quan điểm của chúng tôi, quy định hướng dẫn trên của Tòa
án nhân dân tối cao cần được quy định trong các Nghị quyết hướng dẫn xét xử của
Tòa án nhân dân tối cao trong giai đoạn hiện nay làm cơ sở pháp lý cho công tác
xét xử các tranh chấp loại này trong thực tiễn.
--------------------------------------------------
TSLS - Nguyễn Đức Tùng
Công ty Luật Trung Nguyễn
Số 118, phố Yên Lãng, Đống Đa, Hà Nội
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét