Ly hôn và những quy định bất cập của pháp luật điều chỉnh
Thứ Sáu, 6 tháng 6, 2014
"Thực trạng cho thấy có rất
nhiều trường hợp vợ hoặc chồng muốn ly hôn nhưng lại Tòa án không thể tiến hành
giải quyết được, có nhiều vụ việc kéo dài trong rất nhiều năm với nguyên nhân
duy nhất là do người vợ hoặc chồng bị mất năng lực hành vi dân sự. Thiết nghĩ
trong những trường hợp này các nhà lập pháp cần đưa ra những giải pháp không chỉ
bảo đảm những quyền và lợi ích hợp pháp của người vợ hoặc chồng đang bị mất
năng lực hành vi mà còn đảm bảo quyền mưu cầu hạnh phúc của người muốn đơn
phương xin ly hôn trong trường hợp này..."
Theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, Bộ luật
dân sự 2005 thì kết hôn được coi là một trong những quyền nhân thân của công
dân. Điều này được thể hiện ở việc khi nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy
định của pháp luật về hôn nhân và gia đình có quyền tự do kết hôn. Nhưng nếu trong
quá trình chung sống mà vợ, chồng hoặc cả hai người xét thấy tình trạng trầm trọng,
đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được thì có
quyền yêu cầu Tòa án giải quyết việc ly hôn.
(Ảnh sưu tầm)
Ly hôn là một trong những quyền của vợ hoặc chồng, và quyền
này sẽ được Tòa án quyết định khi và chỉ khi có đủ những căn cứ mà pháp luật
quy định. Nhưng trên thực tế hiện nay có nhiều trường hợp mặc dù đã có đủ căn cứ
để Tòa quyết định cho ly hôn nhưng Tòa án vẫn thể không giải quyết được yêu cầu
của vợ hoặc chồng xin đơn phương ly hôn là do người vợ hoặc chồng bị mất năng lực
hành vi dân sự nên không có năng lực hành vi tố tụng dân sự để tham gia vào quá
trình giải quyết vụ việc. Theo như quy định của Bộ luật TTDS 2004 thì đương sự
phải là người từ đủ 18 tuổi trở lên và có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự.
Năng lực hành vi tố tụng dân sự ở đây được hiểu là khả năng tự mình thực hiện
quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia tố tụng
dân sự. Trường hợp một người mặc dù đã đủ mười tám tuổi nhưng mất năng lực hành
vi dân sự thì được xác định là người không có năng lực hành vi tố tụng dân sự.
Việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho những người này tại Tòa án do người đại
diện hợp pháp của họ thực hiện (Khoản 4 Điều 57 Bộ luật TTDS 2004). Như vậy,
trong trường hợp người vợ hoặc chồng bị mất năng lực hành vi dân sự thì người
chồng sẽ là người giám hộ trong trường hợp vợ mất năng lực hành vi dân sự; nếu
chồng mất năng lực hành vi dân sự thì vợ là người giám hộ. Với tư cách là người
giám hộ của người được giám hộ thì vợ hoặc chồng sẽ được coi là người đại diện
theo pháp luật để nhân danh và vì lợi ích của người được đại diện (người được
giám hộ) thực hiện các công việc thay cho người được đại diện theo quy định của
pháp luật. Nhưng có một khó khăn ở đây là vấn đề quyền ly hôn, cũng giống như
quyền kết hôn thì quyền ly hôn cũng được coi là một trong những quyền nhân thân
của vợ hoặc chồng (Điều 42 Bộ luật dân sự 2005). Mà đã là quyền nhân thân thì
đây được coi là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao
cho người khác (Điều 24 Bộ luật dân sự 2005). Do đó, mặc dù vợ hoặc chồng với
tư cách là người giám hộ cho người mất năng lực hành vi dân sự vẫn mặc dù có thể
được coi là người đại diện theo pháp luật trong một số trường hợp, nhưng lại
không thể đại diện để quyết định thay cho người vợ hoặc chồng đang bị mất năng
lực hành vi dân sự đồng ý hay không đồng ý việc ly hôn.
Do vậy, chính điều này đã dẫn tới thực trạng có rất nhiều
trường hợp vợ hoặc chồng muốn ly hôn nhưng lại Tòa án không thể tiến hành giải
quyết được, có nhiều vụ việc kéo dài trong rất nhiều năm với nguyên nhân duy nhất
là do người vợ hoặc chồng bị mất năng lực hành vi dân sự. Thiết nghĩ trong những
trường hợp này các nhà lập pháp cần đưa ra những giải pháp không chỉ bảo đảm những
quyền và lợi cíh hợp pháp của người vợ hoặc chồng đang bị mất năng lực hành vi
mà còn đảm bảo quyền mưu cầu hạnh phúc của người muốn đơn phương xin ly hôn
trong trường hợp này. Cụ thể, như việc Tòa án vẫn có thể quyết định cho vợ hoặc
chồng đơn phương ly hôn nếu xét thấy cuộc sống của vợ hoặc chồng sau khi ly hôn
(người mất năng lực hành vi dân sự) vẫn có sự đảm bảo về mặt sức khỏe, tinh thần,
và tùy từng trường hợp mà có thể quyết định người xin ly hôn có nghĩa vụ cấp dưỡng
đối với người kia trong một khoảng thời gian nhất định. Điều này đã được Luật
HN&GĐ năm 200 quy định tại Điều 60 về nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng
sau khi ly hôn.
Đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cũng như
góp phần hoàn thiện các quy định của Bộ luật dân sự 2005, Bộ luật tố tụng dân sự
2004 (sửa đổi, bổ sung 2011), hy vọng trong thời gian tới các nhà lập pháp sẽ
có những giải pháp phù hợp, cụ thể để điều chỉnh vấn đề này.
TSLS - Vũ Quang Bá
Công ty TNHH Luật Trung Nguyễn
Số 118, phố Yên Lãng, Đống Đa, Hà Nội
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét