Home
» tuvanphapluat
» Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự và vấn đề thời hiệu khởi kiện
Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự và vấn đề thời hiệu khởi kiện
Thứ Hai, 26 tháng 5, 2014
Đổi mới thủ tục hành chính trong
các cơ quan tư pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp
cận công lý; người dân chỉ nộp đơn đến Tòa án, Tòa án có trách
nhiệm nhận và thụ lý đơn. Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ
luật tố tụng dân sự đã xác định thời hiệu khởi kiện vụ án không phải
là điều kiện để thụ lý vụ án và có thể nói đây là điểm thay đổi
mang tính chất đột phá.
(Ảnh sưu tầm)
Thời hiệu khởi kiện được quy định
tại Điều 159 Bộ luật tố tụng dân sự (“BLTTDS”) và được sửa đổi bổ sung tại
khoản 22 Điều 1 của Luật sửa đổi. So với quy định trong BLTTDS thì
khoản 1, 2 Điều 159 vẫn được giữ nguyên, sửa đổi khoản 3 và bổ sung
khoản 4.
Trong việc giải quyết vụ án dân sự,
Khoản 3 Điều 159 được sửa đổi, bổ sung như sau: “Thời hiệu khởi
kiện vụ án dân sự được thực hiện theo quy định của pháp luật.
Trường hợp pháp luật không có quy định về thời hiệu khửi kiện vụ
án dân sự thì thực hiện như sau:
a) Tranh
chấp về quyền sở hữu tài sản, tranh chấp về đòi lại tài sản do
người khác quản lý, chiếm hữu; tranh chấp về quyền sử dụng đất theo
quy định của pháp luật về đất đai thì không áp dụng thời hiệu khởi
kiện;
b) Tranh chấp không thuộc trường hợp
quy định tại điểm a khoản này thì thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự
là hai năm kể từ ngày cá nhân, cơ quan, tổ chức biết được quyền và
lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm”.
Nếu chỉ quy định sửa đổi như trên
thì chúng ta chưa thấy được sự thay đổi về chất trong quy định của
pháp luật tố tụng dân sự về thời hiệu khởi kiện. Nghị quyết số 49
- NQ/TW ngày 02/06/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã
xác định: “Đổi mới thủ
tục hành chính trong các cơ quan tư pháp nhằm tạo điều kiện thuận
lợi cho người dân tiếp cận công lý; người dân chỉ nộp đơn đến Tòa
án, Tòa án có trách nhiệm nhận và thụ lý đơn”. Đây là một trong
những quan điểm chỉ đạo khi xây dựng Luật sửa đổi. Từ quan điểm chỉ
đạo này, Luật sửa đổi đã xác định thời hiệu khởi kiện vụ án dân
sự không phải là điều kiện để thụ lý vụ án và có thể nói đây là
điểm thay đổi mang tính chất đột phá. Trước đây, theo quy định của
BLTTDS, khi nhận được hồ sơ khởi kiện, Tòa án phải nghiên cứu và xem
xét các điều kiện thụ lý như quyền khởi kiện, thẩm quyền của tòa
án, thời hiệu khởi kiện ... để xác định xem có thụ lý hay không.
Trường hợp hết thời hiệu khởi kiện thì Tòa án sẽ không thụ lý vụ
án, trả hồ sơ khởi kiện cho đương sự theo điểm a khoản 1 Điều 168
BLTTDS. Nay theo quy định tại Điều 168 được sửa đổi thì các trường
hợp mà Tòa án trả lại đơn khởi kiện không có trường hợp hết thời
hiệu khởi kiện. Như vậy, thời hiệu khởi kiện theo quy định của Luật
sửa đổi không phải là điều kiện để xác định việc thụ lý vụ án dân
sự.
Sở dĩ có sự thay đổi như vậy là do
Luật này đã thay đổi quan niệm về thời hiệu khởi kiện vụ án dân
sự. BLTTDS quan niệm rằng thời hiệu khởi kiện là thời hiệu thụ lý
đơn, là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa
án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị
xâm phạm. Nếu thời hạn đó kết thúc thì chủ thể đó mất quyền khởi
kiện. Với quan niệm như vậy, thực tiễn giải quyết các vụ án dân sự
tại Tòa án đã gặp nhiều khó khăn vướng mắc, nhiều trường hợp ảnh
hưởng tới quyền và lợi ích của các đương sự và không phù hợp với
thông lệ quốc tế. Để khắc phục vấn đề này, Luật sửa đổi đã tiếp
cận theo hướng thông lệ quốc tế, tách bạch việc thụ lý của tòa án
với quyền của các chủ thể trong quan hệ tố tụng dân sự. Thời hiệu
khởi kiện ở đây không nên hiểu là thời hiệu thụ lý đơn, mà phải
được hiểu là bên có nghĩa vụ được miễn trừ nghĩa vụ khi đã hết
thời hạn mà họ phải thực hiện nghĩa vụ của mình. Còn quyền khởi
kiện là quyền cơ bản của các chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự
và Tòa án luôn có trách nhiệm phải thụ lý đơn khởi kiện và không
được lấy lý do thời hiệu khởi kiện đã hết để từ chối thụ lý đơn
khởi kiện khi có yêu cầu. Ví dụ: đối với vụ án vay tiền khi đã hết
thời hiệu khởi kiện, theo cách hiểu nêu trên thì bên cho vay vẫn có
quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết và Tòa án phải có trách
nhiệm thụ lý vụ án để xem xét, quyết định việc bên vay phải có
trách nhiệm thanh toán toàn bộ khoản tiền đã vay hay được miễn trừ
toàn bộ hoặc một phần khoản tiền đã vay.
Nhờ có sự thay đổi trong quy định về
thời hiệu khởi kiện tại Luật sửa đổi bổ sung một số điều của
BLTTDS nên trên thực tế đã có nhiều tranh chấp nếu chiếu theo quy định
cũ đã hết thời hiệu khởi kiện thì nay đã được thụ lý giải quyết.
Một vụ án dân sự mà Công ty Luật TNHH Trung Nguyễn đang tiến hành
giải quyết có liên quan đến vấn đề thời hiệu khởi kiện này là vụ
kiện “Đòi tiền và tài
sản cho mượn” giữa nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Phong và bị đơn
là ông Đào Đức Trung và bà Cao Thị Kim Chi. Nội dung vụ việc như sau:
năm 2007 và 2008 bà Nguyễn Thị Phong (người giúp việc) đã cho vợ
chồng ông Đào Đức Trung và bà Cao Thị Kim Chi (chủ nhà) lần lượt vay
26.500.000 đồng và 1,9 cây vàng. Đến hạn trả nợ tiền và vàng ông
Trung và bà Chi đã khất nợ, sau đó bà Phong đã đòi nhiều lần nhưng
vợ chồng ông bà Trung, Chi vẫn không trả. Đến ngày 07/09/2012 bà Phong
đã nộp đơn khởi kiện ra TAND quận Ba Đình. Vụ án đã được TAND quận
Ba Đình xét xử sơ thẩm ngày 22/01/2014. Tuy nhiên sau đó phía bị đơn
có kháng cáo và hiện hồ sơ vụ án đã được chuyển lên TAND thành phố
Hà Nội để giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
Như vậy, qua trường hợp này có thể
thấy việc sửa đổi quy định về thời hiệu khởi kiện trong Luật sửa
đổi bổ sung một số điều của BLTTDS đã có nhiều ý nghĩa thiết thực.
Đặt giả thiết, bà Phong nộp đơn khởi kiện vào năm 2011 (trước thời điểm Luật sửa đổi
bổ sung một số điều của BLTTDS có hiệu lực) thì vụ án này đã không được thụ
lý giải quyết do hết thời hiệu khởi kiện. Trên thực tế, bà Phong đã
nộp đơn khởi kiện tới TAND quận Ba Đình vào tháng 9 năm 2012 (thời điểm luật sửa đổi có
hiệu lực) nên bà đã được
pháp luật bảo vệ và nhờ đó số tiền và tài sản bà dành dụm cả
đời mới có cơ hội lấy lại được.
Đỗ Thị Tùng
Tập sự hành nghề luật
sư
Công ty Luật TNHH
Trung Nguyễn
Số 118, phố Yên Lãng,
Đống Đa, Hà Nội
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét