Hôn nhân đồng tính – Khi pháp luật chưa song hành với thực tiễn
Thứ Sáu, 28 tháng 3, 2014
PNTĐ - Hôn nhân đồng
tính là hôn nhân của hai người có cùng giới tính sinh học hoặc giới tính xã hội
được chấp nhận về mặt luật pháp. Hiện nay trên thế giới, kết hôn đồng giới là một
vấn đề về quyền con người và là vấn đề chính trị, xã hội, đạo đức và tôn giáo ở
nhiều quốc gia phương Tây.
Trong thời gian gần đây, vấn đề về hôn nhân đồng tính là một trong những
vấn đề nổi cộm, được mọi người – đặc biệt là giới trẻ quan tâm. Đây không phải
là một vấn đề mới nảy sinh, mà nó tồn tại song song cùng với sự phát triển của
xã hội loài người, đã được luật hóa tại nhiều nước trên thế giới. Tại Việt nam,
trong xu thế hội nhập quốc tế thì hôn nhân đồng tính đã và đang là vấn đề gây
tranh cãi lớn và cần thiết phải có sự can thiệp bởi pháp luật. Phóng viên báo
Phụ nữ thủ đô đã phỏng vấn Luật sư Nguyễn Tiến Trung - giám đốc Công ty Luật
Trung Nguyễn về vấn đề này.
Luật sư Nguyễn Tiến Trung |
PV: Theo Luật sư, có
cần thiết phải điều chỉnh vấn đề này bằng pháp luật không?Tại sao phải điều
chỉnh?
LS Trung: Hôn nhân đồng tính không phải một hiện tượng xã hội, nó là nhu
cầu của xã hội. Cùng với Nhà nước, pháp luật ra đời nhằm điều chỉnh các mối
quan hệ, pháp luật là phương tiện, công cụ quan trọng để duy trì, bảo vệ trật tự,
tạo điều kiện và định hướng cho sự phát triển xã hội. Đó là lý do tại sao cần
phải có những quy định cụ thể của pháp luật để điều chỉnh vấn đề “hôn nhân đồng
tính”.
Pháp luật Việt Nam hiện nay không công nhận hôn nhân đồng tính. Cụ thể,
trong Luật hôn nhân và gia đình hiện hành khi nhắc đến đối tượng kết hôn đều khẳng
định hai chủ thể “nam và nữ”, vô hình chung đã phủ định sự tồn tại của những
người thuộc giới tính thứ ba.
Nghiên
cứu cho thấy đồng tính là một biến thể tự nhiên của tình dục loài người và
không phải là nguyên nhân dẫn tới những yếu tố tâm lý tiêu cực. Trong nhiều nền văn hóa trước đây,
quan hệ đồng tính rất phổ biến. Trong lịch sử, đồng tính luyến ái, dưới góc độ
cá nhân, từng được ca tụng hoặc lên án vì mỗi xã hội có những chuẩn mực tình dục
khác nhau. Ở những nơi đồng tính được ủng hộ, những quan điểm đó được coi là một
cách làm cho xã hội tiến bộ. Ở Việt Nam, đồng tính đã từng có thời kỳ bị coi là
tội lỗi hoặc bệnh hoạn, bị xã hội tẩy chay.
Tôi xin khẳng
định, đồng tính không phải là một căn bệnh hay một virus nào có thể lây lan. Những
người tình dục đồng giới chỉ là nạn nhân của một cấu trúc sinh học mà họ không
thể thay đổi được, và bản thân họ không hề mong muốn điều này. Nhu cầu được kết
hôn, được chăm sóc, chia sẻ của họ cũng giống như tất cả những người bình thường
khác, Và thực tế, ở Việt nam gần đây đã diễn ra khá nhiều “hôn lễ đồng tính”
gây xôn xao dư luận. Nghĩa là, cho dù pháp luật không điều chỉnh, thì thực tế
đó vẫn diễn ra. Chức năng của luật pháp ngoài việc làm căn cứ để quản lý theo
quy định còn phải dự liệu những tình huống có thể xảy ra. Khi luật pháp chạy chậm
hơn thực tiễn thì cần phải điều chỉnh kịp thời. Bởi những hệ lụy nảy sinh xung
quanh nó rất nguy hiểm. Nếu đó không phải là bệnh thì pháp luật không thể phủ
nhận sự tồn tại mặc nhiên của nó.
PV: Luật sư có thể
cho biết thêm những hệ lụy nảy sinh do thiếu sự
điều chỉnh của pháp luật trong lĩnh vực
này?
LS Trung: Những
người đồng tính đều có những nhu cầu cần thiết như những người bình thường
khác. Và vì vậy, khi pháp luật hạn chế quyền tự do hôn nhân cũng đồng thời với
việc, bản thân phải họ phải “tự mình thực hiện” quyền lợi chính đáng. Tuy
nhiên, song hành với điều đó, khi có tranh chấp nảy sinh, họ sẽ không được pháp
luật bảo vệ.
Những người
đồng tính khi kết hôn cũng có thể phát sinh rất nhiều vấn đề như bao cặp vợ chồng
bình thường, ví dụ như: vấn đề nuôi con nuôi, vấn đề liên quan đến tài sản
chung (xác định tài sản chung hợp nhất, chia tài sản trong thời kỳ hôn nhân,
chia tài sản sau khi ly hôn… ),
vấn đề cấp dưỡng, vấn đề về thừa kế…
Tuy nhiên, về mặt pháp luật, họ không được thừa nhận là vợ chồng hợp
pháp, những quy định về dân sự, hôn nhân gia đình… do đó không thể áp dụng làm
căn cứ để giải quyết tranh chấp (nếu có). Rõ ràng, trong trường hợp pháp luật
chưa bao quát hết vấn đề của xã hội, nhất là khi đó lại là vấn đề cấp thiết, một
nhu cầu chính đáng, một vấn đề thuộc về “quyền con người”.
Một vấn đề nữa nảy sinh cũng do ảnh hưởng của việc “không thừa nhận hôn
nhân đồng tính”. Trong thời gian gần đây, số lượng những người đồng tính tiến
hành phẫu thuật chuyển đổi giới tính đã tăng với tốc độ chóng mặt, chỉ với một
mong muốn được xã hội thừa nhận, có cơ hội để làm “người bình thường”. Tuy
nhiên, pháp luật Việt Nam, vì không thừa nhận hôn nhân đồng tính, cũng chưa cho
phép “phẫu thuật chuyển đổi giới tính” mà mới chỉ có quy định điều chỉnh đối với
những người có nhu cầu “xác minh lại giới tính” (Nghị định 88/20008/NĐ – CP).
Gần đây, dư luận đã xôn xao về việc UBND huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước “xé rào” ra quyết định cải chính giới tính
cho cô “Phạm Văn Hiệp”, rồi sau đó lại nhanh chóng ra văn bản thu hồi. Thực tế,
những người đã chuyển đối giới tính còn gặp vô vàn những rắc rối bởi dễ đổi
“hình” nhưng không dễ đổi “tên”. Họ không có cách nào cải chính lại thông tin
trên giấy tờ chứng minh nhân thân. Do vậy, họ cũng không thể tiến hành kết hôn
một cách hợp pháp.
PV: Quan điểm của luật sư về vấn đề này?
LS Trung: Theo tôi, cần thiết và phải nhanh chóng cụ thể
hóa vấn đề này bằng pháp luật trong thời gian tới. Đây sẽ là một quy định tiến
bộ và được mọi người ủng hộ
Thứ nhất, đảm bảo quyền tự do hôn nhân là đảm bảo quyền con người. Đây là một nhu
cầu chính đáng được khẳng định bản thân, được cộng đồng thừa nhận của người đồng
tính. Nhà nước phải có trách nhiệm tạo điều kiện để những người thuộc giới tính
thứ ba được hòa nhập với cộng đồng, có cơ hội phát triển như bao người bình thường
khác. Sự thừa nhận của Nhà nước cũng là sự khẳng định có tác dụng đầy lui những
kỳ thị, những quan điểm sai lầm về vấn đề “giới tính thứ ba, hôn nhân đồng giới…”.
Đồng thời, cũng là sự phát triển hiện đại tất yếu, phù hợp với xu thế toàn cầu
hóa của quốc tế; là đòn cảnh cáo đối với những thế lực luôn tìm cách chống phá
bằng chiêu bài “nhân quyền”.
Thứ hai, cụ thể hóa vấn đề “hôn nhân đồng tính” bằng pháp luật là điều kiện để
giải quyết các tranh chấp có thể phát sinh bằng chính công cụ pháp luật, bảo vệ
cho những người có quyền, lợi ích chính đáng bị xâm phạm.
Thứ ba, chấp nhận hôn nhân đồng tính là một trong những biện pháp hạn chế tình
trạng phẫu thuật chuyển giới.
Trên thế giới, tại các quốc gia công nhận và cho phép “hôn nhân đồng
tính”, số lượng người phẫu thuật chuyển giới không nhiều. Họ tự tin kết hôn với
nhau một cách công khai, không cần trải qua bất cứ một phẫu thuật nào để khẳng
định bản thân. Đây là vấn đề thuộc về yếu tố tâm lý. Một người thuộc giới tính
thứ ba không được xã hội thừa nhận thường có tâm lý tự ti, bất ổn, thái độ nhạy
cảm và né tránh. Họ cho rằng vẻ bề ngoài cả mình là nguyên nhân dẫn đến điều
đó. Thực tế không phải như vậy, sự thừa nhận con người thực chất xuất phát từ
quan điểm của thân chứ không căn cứ vào yếu tố bên ngoài. Khi xã hội tiến bộ
văn minh đã chấp nhận “hôn nhân đồng tính”, thì vẻ bề ngoài của họ như thế nào
cũng không còn là vấn đề. Việc hạn chế tình trạng phẫu thuật chuyển đổi giới
tính là điều cần thiết. Bởi ngoài tác dụng bên ngoài là tạo hình dáng mong muốn
cho người đồng tính thì nó gần như không có tác dụng thay đổi về “chất”. Hầu hết
những người có nhu cầu chuyển giới tại Việt nam đều chọn Thái Lan là điểm đến,
lý do là chi phí rẻ hơn. Chi phí rẻ cũng đồng thời với nhiều hệ quả xấu. Người
chuyển giới có thể gặp nhiều nguy hiểm trong quá trình phẫu thuật, chưa kể những
đau đớn về thể xác. Trong quãng đời còn lại họ phải đối mặt với việc sử dụng
hormone sinh dục thường xuyên, vẻ bề ngoài chỉ giữ được khoảng 7 – 10 năm và
nhanh chóng lão hóa… Đồng thời, chi phí cho phẫu thuật là khá cao so với mức
thu nhập bình quân tại nước ta hiện nay (Trung bình khoảng 20.000 – 30.000
USD).
Đề nghị Luật
hôn nhân và Gia đình xóa bỏ sự phân biệt đối xử về giới, cho phép những người đồng
giới tính kết hôn với nhau, tuy nhiên cần có những quy định cụ thể. Luật pháp cần
quy định về quyền và nghĩa vụ giữa các bên cùng giới tính trong quan hệ chung sống
như vợ chồng theo giải pháp quy định về việc chung sống như vợ chồng giữa những
người khác giới.
------------------------------------------------------------
Luật sư Nguyễn Tiến Trung
Công ty Luật TNHH Trung Nguyễn
Theo Báo Phụ nữ thủ đô
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét